Phao cứu sinh đã đủ sức cho xuất khẩu lao động

“Phao cứu sinh” không đủ sức… nổi
 
Khi điều kiện giải quyết việc làm tại chỗ còn nhiều hạn chế, Đề án "Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020" theo Quyết định 71/2009 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Đề án 71) được coi là "phao cứu sinh" giúp các hộ dân thoát nghèo.
 
Song, sau gần 6 năm triển khai, chiếc “phao” này dường như chưa đủ sức nổi để doanh nghiệp (DN) XKLĐ và người lao động (NLĐ) có thể bấu víu?

Mục tiêu đạt thấp
Không thể phủ nhận, khi điều kiện giải quyết việc làm tại chỗ trong nước còn nhiều hạn chế, thì XKLĐ chính là "phao cứu sinh" của NLĐ ở 62 huyện nghèo trên cả nước. Minh chứng là hàng tháng, nhiều lao động tại Malaysia, Đài Loan gửi về cho gia đình từ 5 - 10 triệu đồng, lao động tại Hàn Quốc, Nhật Bản cao hơn với mức từ 15 - 20 triệu đồng. Nhờ đó, nhiều gia đình đã cải thiện được cuộc sống, thoát khỏi diện đói nghèo và vươn lên làm giàu.

 
Người lao động đang phỏng vấn đi xuất khẩu sang Nhật tại Công ty CP TMS Nhân Lực.
Người lao động đang phỏng vấn đi xuất khẩu sang Nhật tại Công ty CP TMS Nhân Lực

 
Thế nhưng, một nghịch lý là dù người dân được miễn toàn bộ chi phí học nghề, ngoại ngữ, ăn ở, đi lại và được hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp trước khi đi làm việc ở nước ngoài, nhưng sau gần 6 năm thực hiện Đề án 71, chỉ có 9.000 lao động tại các huyện nghèo đi XKLĐ, thấp hơn nhiều lần so với mục tiêu đề ra. Cụ thể, trong giai đoạn thí điểm từ năm 2009 - 2010, đưa 5.000 người đi XKLĐ; từ 2011 - 2015, đưa đi 50.000 người và từ 2016 - 2020 tăng thêm 15% số lao động. Hơn thế, ở hầu hết 62 huyện nghèo thuộc phạm vi thực hiện Đề án 71, số người đi XKLĐ ngày càng giảm. Đơn cử, năm 2010, cả tỉnh Thanh Hóa có 823 người được đưa đi XKLĐ, thì năm 2011 còn 451 người, năm 2012 còn 310 người và năm 2013 tụt xuống ở mức khoảng 100 người.

Hỗ trợ thêm phí môi giới, dịch vụ
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên được đại diện Cục Quản lý Lao động ngoài nước lý giải là vì khoảng 60% lao động tham gia Đề án là hộ nghèo, người dân tộc thiểu số có trình độ tiểu học trở xuống. Tâm lý không muốn xa quê hương, bản làng khiến nhiều người không muốn tham gia XKLĐ, hoặc bỏ cuộc giữa chừng. Nhiều trường hợp khác vì nghe được những thông tin về rủi ro có thể xảy ra khi làm việc ở nước ngoài cũng từ bỏ ý định. Và thực tế, đã có những công ty "ma" lừa NLĐ trình độ thấp đi XKLĐ, khiến họ mắc nợ oan đã làm nhiều người mất lòng tin đối với dịch vụ này.

Bởi vậy, dù theo quy định DN tham gia Đề án 71 được quyết toán phần kinh phí hỗ trợ NLĐ sau khi ứng trước một số khoản, nhưng nhiều DN vẫn bị thua lỗ vì tốn rất nhiều cho chi phí tạo nguồn, tuyên truyền mà số người đi XKLĐ quá ít và lâu được quyết toán số tiền phải ứng trước. Bởi thế, từ trên 50 DN tham gia Đề án 71, đến nay còn chưa đến 20 đơn vị. Để tăng sức nổi cho "phao cứu sinh", một số DN cho rằng, Đề án 71 chỉ hỗ trợ NLĐ các chi phí trước khi đi, còn các chi phí khác như phí môi giới, phí dịch vụ phải vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Do hầu hết NLĐ thuộc đối tượng nghèo, nên đây là gánh nặng đối với họ. Vì thế, nếu Nhà nước hỗ trợ thêm phí môi giới, dịch vụ cho NLĐ sẽ có nhiều người nghèo đi XKLĐ hơn.

Về vấn đề này, đại diện Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết, đầu năm 2014, Bộ LĐTB&XH đã đưa ra nhiều giải pháp đồng bộ. Trong đó, chú trọng nâng cao chất lượng tay nghề và khả năng giao tiếp của NLĐ; lựa chọn kỹ hơn và công khai tên các DN được phép đưa người đi XKLĐ; đề nghị chính quyền địa phương định hướng và giúp NLĐ đi XKLĐ, và tạo cơ hội việc làm cho NLĐ bị trả về trước thời hạn do sai phạm… để họ sớm hoàn trả nợ đã vay. Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan cũng đang ra sức tìm kiếm, mở rộng thị trường, ngành nghề ở nước ngoài tiếp nhận lao động Việt Nam để đẩy mạnh hoạt động này. Nhờ đó, trong 6 tháng đầu năm 2014, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 55.205 lao động, tăng so với cùng kỳ năm 2013. Tuy nhiên, để "phao cứu sinh" hoạt động hiệu quả, vẫn còn rất nhiều việc phải làm..